Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, trong đó có xây dựng gia đình nông dân văn hóa; tham gia xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội V của Đảng và thể hiện trong một số Nghị quyết khác, như: Nghị quyết Trung ương 4 và 5 khóa VII, Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, nhằm làm cho cơ sở phát triển toàn diện cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đó vai trò của văn hóa vừa là mục tiêu của mọi hoạt động xã hội, vừa là động lực của sự phát triển.
I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ VĂN HÓA
1. Khái niệm văn hóa
Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông thường để chỉ học thức (trình độ học vấn), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một xã hội trong một giai đoạn nhất định của loài người. Theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động… Chính vì với cách hiểu rộng này, đến nay trên thế giới có hàng trăm khái niệm khác nhau về văn hóa. Theo cách hiểu hẹp hơn và thường xuyên được sử dụng, văn hóa còn được coi là các loại hình hoạt động cụ thể của ngành văn hóa - thông tin, như bảo tồn, bảo tàng, thư viện, xuất bản, đời sống văn hóa cơ sở… và các loại hình văn học, nghệ thuật. Đây chính là những nội dung xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của ngành văn hóa - thông tin từ trung ương đến địa phương.
Hiểu theo nghĩa cụ thể hơn: văn hóa là tất cả những gì không phải thiên nhiên, nghĩa là tất cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp tới con người và văn hóa là một trong các lĩnh vực chính, giữ vị trí rất quan trọng, cùng với chính trị, kinh tế và xã hội tạo nên diện mạo, trình độ, chất lượng và đặc điểm của xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”1. Người cũng từng coi 4 vấn đề: chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong công cuộc kiến thiết nước nhà đều có tầm quan trọng ngang nhau. Như vậy, văn hóa là một bộ phận hợp thành toàn bộ đời sống xã hội, thiếu nó, xã hội không thể phát triển toàn diện được.
Trong cuốn Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, đưa ra khái niệm văn hóa như sau: “Văn hóa là toàn bộ hoạt động của con người, toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, xã hội, thông qua mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và con người với con người”2.
Từ khái niệm trên, có nghĩa văn hóa là tổng thể hoạt động sáng tạo của các cá nhân, các cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Trải qua hàng thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy tạo nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu và tập quán - những yếu tố xây dựng đặc tính của mỗi dân tộc. Trong đời sống của mỗi dân tộc, văn hóa là kết tinh của sự lao động sáng tạo từ thế hệ này qua thế hệ khác để vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ. Trong quá trình đó, con người vừa là chủ thể sáng tạo, lại vừa là đối tượng tiếp thụ những giá trị do chính mình sáng tạo ra, làm cho mỗi cá nhân cũng như cả cộng đồng ngày càng đạt tới những đỉnh cao của văn hóa. Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước. Chính vì vậy, mỗi nền bản sắc hoá có bản sắc riêng của dân tộc mình. Người ta gọi đó là bản sắc văn hóa dân tộc: “Bản sắc văn hoá dân tộc là những giá trị tinh hoa cốt yếu cùng các sắc thái đặc thù bền vững của dân tộc, tổng hoà gắn kết lại với nhau trong nền văn hoá” 3.
Nền văn hoá Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam “Bản sắc văn hoá Việt Nam là những giá trị bền vững nhất, tinh hoa nhất tạo nên giá trị đặc biệt, đặc sắc nhất của văn hoá Việt Nam”4.
Chính yếu tố bản sắc trong nền văn hoá của dân tộc Việt Nam đã tạo nền tảng, sức mạnh cho dân tộc đấu tranh kiên cường, giành lại độc lập dân tộc, tự do cho đất nước. Trải qua hàng nghìn năm bị đô hộ, nhưng dân tộc ta vẫn giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá của mình, không những không bị đồng hoá, mà ngày càng được bảo tồn, phát triển.
2. Vị trí, vai trò của văn hóa
2.1. Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống của con người
Lịch sử loài người đã khẳng định rằng, loài người có hai nhu cầu lớn nhất là: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Con người luôn luôn lao động, đấu tranh và sáng tạo để thoả mãn các nhu cầu đó, làm cho con người cũng như xã hội mới tiến bộ hơn. Song, đặc trưng riêng biệt nhất của con người chính là nhu cầu tinh thần, là khát vọng vươn tới chân, thiện, mỹ, là sự phong phú, cao đẹp của tâm hồn, của thế giới tinh thần. Trong đời sống một con người từ lúc sinh ra cho đến khi giã từ cuộc đời, văn hóa luôn luôn có mặt, trở thành nhu cầu cấp thiết, thường xuyên, hàng ngày. Đối với cả loài người, con người luôn luôn sống và phát triển trong hai cái nôi vĩ đại, đó là môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa do chính con người xây đắp và sáng tạo.
Văn hóa là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra những giá trị văn hóa, những tác phẩm và công trình nghệ thuật làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống con người. Khác với lĩnh vực sản xuất vật chất, lĩnh vực sản xuất tinh thần này tạo ra các giá trị đặc biệt, khi được nhân dân khẳng định, nó thể hiện bản sắc, đặc trưng, những vẻ đẹp độc đáo của một dân tộc, trở thành những công trình bền vững, có sức sống lâu dài, trường tồn với thời gian, không bị cũ đi, mà được gìn giữ, bảo tồn và phát huy mãi mãi.
2.2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Văn hoá là mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng đời sống tinh thần của xã hội; vì vậy hai lĩnh vực kinh tế và văn hóa luôn giữ vị trí quan trọng và quyết định đối với sự vận động và phát triển của xã hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Điều này không chỉ đúng với xã hội - xã hội chủ nghĩa mà còn đúng với mọi xã hội. Đương nhiên, kinh tế là nhân tố hàng đầu, xét đến cùng quyết định sự phát triển của xã hội và văn hóa là sự phản ánh những tồn tại kinh tế đó, nhưng là một sự phản ánh không thụ động mà hết sức năng động, quyết định trở lại sự phát triển của kinh tế. Lịch sử các xã hội, sự thịnh suy của các quốc gia, dân tộc trên thế giới đều có liên quan đến nhân tố văn hóa, đều có quan hệ nhân quả với sự phát triển văn hóa. Lịch sử dân tộc ta càng chứng minh rõ vai trò của văn hóa trong sự phát triển của dân tộc. Dân tộc ta là dân tộc văn hiến. Văn hóa bao giờ cũng là nhân tố cơ bản và thường xuyên làm nên mọi thắng lợi của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Kinh tế và văn hóa thịnh vượng, đất nước giàu và mạnh thì họa xâm lăng tránh được. Hễ kinh tế và văn hóa suy thì lập tức nguy cơ mất nước xuất hiện. Đến thời hiện đại, sức mạnh tinh thần, sức mạnh văn hóa Việt Nam càng trở thành nhân tố hàng đầu, là cơ sở của toàn bộ sức mạnh dân tộc Việt Nam. Chiến thắng hai đế quốc lớn Pháp và Mỹ, trước hết là do có sức mạnh văn hóa. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sức mạnh văn hóa, sức mạnh tinh thần càng phải được phát huy hơn bao giờ hết. Nếu như trước đây những giá trị tinh thần cao quý của dân tộc mà cốt lõi là lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm thì ngày nay, chủ nghĩa yêu nước được bổ sung những giá trị mới. Đó là sự đồng lòng nhất trí, sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết phấn đấu không ngừng để khắc phục nghèo nàn, lạc hậu, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.
Văn hóa không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò động lực đó có thể mạnh hay yếu, có thể thúc đẩy mà cũng có thể kìm hãm, tuỳ theo sự phát triển của văn hóa như thế nào, có tương xứng, thậm chí có thể đi trước một bước so với sự phát triển kinh tế hay không. Nếu như phát triển kinh tế là cơ sở vật chất của phát triển thì văn hóa lại là cơ sở tinh thần của sự phát triển kinh tế. Khi nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội thì cần phải hiểu rằng, các vai trò đó bao giờ và chủ yếu thông qua nhiệm vụ xây dựng con người của văn hóa. Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa và văn hóa có chức năng trực tiếp nuôi dưỡng, xây đắp và góp phần phát triển con người về trí tuệ, tài năng, nhân cách…, đặc biệt là những phẩm chất tinh thần - tâm hồn của con người. Chức năng đặc thù của văn hóa là xây dựng nên hệ thống các giá trị làm chuẩn mực cho con người vươn tới, noi theo. Và khi các chuẩn mực, các giá trị đó được tiếp nhận, được thấm sâu vào từng con người và từng cộng đồng thì đó chính là quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất trong con người. Tổng hợp các phẩm chất tốt đẹp đã được hình thành trong con người chính là nhân cách. Như vậy, nếu sản xuất vật chất tạo ra ngày càng nhiều của cải cho con người thì sản xuất tinh thần chính là tạo ra những phẩm giá, những giá trị trong nhân cách con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Người còn khẳng định ở tầm khái quát rộng hơn: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi…, phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”5. Phải “Xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc”6.
Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết T.Ư 5 (khóa VIII) về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đã xác định rõ: Phát triển văn hóa làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và đồng bộ với phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
Hội nghị Trung ương đã đề ra mười nhiệm vụ cụ thể, trong đó nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Nâng cao tính tự quản, chất lượng, hiệu quả cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa; hướng cuộc vận động về cơ sở, làm chuyển biến rõ rệt môi trường văn hóa ở gia đình, ấp, bản, buôn, làng…”7. Thực hiện nhiệm vụ này chính là xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, ở khu vực nông thôn. Đơn vị cơ sở trong tổ chức xây dựng đời sống văn hóa được xác định theo Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) là làng, ấp, bản, xã, phường, vùng dân cư, gia đình, họ tộc… Đó là những cộng đồng người có địa bàn sinh sống theo một tổ chức hành chính nhất định.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN CUỘC VẬN ĐỘNG “TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA”
- Thôn, ấp, bản, làng là nơi cuối cùng triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nông thôn nước ta là nơi sinh sống của gần 80% dân số cả nước; nông nghiệp thu hút 70% lao động xã hội. Nông thôn còn là nơi lưu giữ, bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc. Song, đây lại là nơi nhân dân có mức sống thấp, điều kiện sinh hoạt còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nhất là sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đời sống của nhân dân ở các vùng nông thôn, vùng nghèo đã tăng lên nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập bình quân. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã tập hợp được sức mạnh của mọi tầng lớp xã hội, thu hút tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Những năm qua, cuộc vận động xây dựng “gia đình văn hóa”, xây dựng “làng, thôn, ấp, bản văn hóa” với sự tham gia chủ động mang tính tự nguyện, tự quản của nông dân, của cộng đồng dân cư ở nông thôn đã đạt kết quả tốt, góp phần làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt cảnh quan, đời sống nông thôn, tăng cường tình làng nghĩa xóm, phát triển sản xuất...
Ở các địa phương này, đời sống kinh tế nhân dân ổn định và phát triển, cơ sở hạ tầng khang trang, cảnh quan môi trường sạch đẹp. Các thiết chế, thể chế văn hóa, giáo dục, y tế đồng bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển dân trí, dân sinh. Tệ nạn xã hội và các hủ tục, mê tín dị đoan giảm bớt. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được thực hiện, vai trò làm chủ và trách nhiệm của từng người dân đối với quê hương được phát huy; phong cách sống, làm việc theo pháp luật được hình thành, hiện tượng khiếu kiện vượt cấp ngày càng giảm; các chỉ tiêu kinh tế - xã hội hoàn thành tốt; an ninh trật tự được giữ vững; cảnh quan, môi trường sạch đẹp. Tuy nhiên, những tiến bộ đạt được trong việc xây dựng đời sống văn hóa nông thôn không đồng đều và chưa vững chắc, môi trường văn hóa ở không ít vùng, miền, địa phương vẫn tiếp tục xuống cấp. Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn về đời sống văn hóa - tinh thần ở nhiều nơi vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Nhiều cơ sở vùng sâu, vùng xa chưa có các thiết chế văn hóa; đời sống văn hóa còn rất nghèo nàn. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền ngày càng lớn. Do đó, cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở nông thôn, hướng vào việc tổ chức động viên, quy tụ các tầng lớp nhân dân, nông dân thi đua xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa, làm cho mỗi người, mỗi gia đình thực sự là một tế bào sống của xã hội, góp phần xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc. Nhiệm vụ này được tiến hành với sự kết hợp hai chiều giữa Nhà nước và nhân dân. Một mặt, Nhà nước thông qua ngành văn hóa - thông tin để chỉ đạo, định hướng, có cơ chế, chính sách, có chương trình, kế hoạch, đồng thời với các biện pháp nghiệp vụ, đem đến cho người dân nông thôn những tác phẩm văn hóa - nghệ thuật đạt giá trị và chuẩn mực, giúp họ cảm thụ, nâng cao nhận thức và chất lượng đời sống văn hoá tinh thần. Mặt khác, hướng dẫn nghiệp vụ vận dộng quần chúng tham gia các hoạt động sáng tạo những sản phẩm văn hóa, bởi vì quần chúng không chỉ là đối tượng phục vụ mà còn là chủ thể có nhiều tiềm năng sáng tạo văn hóa phục vụ nhu cầu tinh thần của chính mình.
- Công cuộc CNH, HĐH hiện nay ở nước ta, đặc biệt là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thực sự đang là một cuộc cải biến lớn, rất căn bản của văn hóa Việt Nam. Với truyền thống giữ vững bản sắc của mình, nó không bao giờ bị văn hóa nước ngoài làm lu mờ, thôn tính, mà tiếp thu những yếu tố văn hóa tiến bộ, hiện đại chứa đựng trong khoa học - công nghệ; nó cộng sinh, làm phong phú nền văn hóa của mình. Theo nghĩa đó, CNH, HĐH có tác dụng tích cực, đem lại những yếu tố mới cho việc làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập quốc tế, tiếp thu khoa học và công nghệ hiện đại, giao lưu văn hóa với các nước, bên cạnh các yếu tố tốt đẹp, còn nhiều yếu tố không phù hợp với văn hóa truyền thống, thậm chí độc hại, cũng được du nhập vào nước ta. Những năm gần đây, bên cạnh các tệ nạn, các hủ tục, mê tín, dị đoan phục hồi, tác động của mặt trái cơ chế thị trường, của hội nhập kinh tế, giao lưu văn hóa đã làm gia tăng xu hướng thực dụng, chạy theo lối sống hưởng thụ, coi đồng tiền là tối thượng…, ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến nếp sống, lối sống, sinh hoạt hàng ngày và các mối quan hệ xã hội của con người, đến các giá trị văn hóa truyền thống, thuần phong, mỹ tục. Đời sống văn hóa thấp trở thành lực cản không nhỏ đối với sự phát triển xã hội. Do vậy, muốn phát triển kinh tế nhanh và bền vững, phải có sự chuẩn bị sớm, chu đáo về đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng của nền văn hóa, hình thành những giá trị văn hóa, phẩm chất đạo đức mới, đồng thời ngăn chặn tình trạng môi trường văn hóa xuống cấp, gia tăng các tệ nạn xã hội.
III. NỘI DUNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CUỘC VẬN ĐỘNG “TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA”
Con người sống và phát triển trong môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, trong đó môi trường xã hội, môi trường văn hóa ảnh hưởng rất lớn, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi con người cũng như của toàn xã hội, hình thành nên nhân cách con người. Môi trường xã hội cụ thể xây dựng người nông dân văn hóa là gia đình nông dân văn hóa, làng, thôn, ấp… văn hóa. Gia đình là tế bào của xã hội, trong đó các thành viên chung sống với nhau theo quan hệ hôn nhân và huyết thống. Nói gia đình là tế bào của xã hội đã bao hàm sự xác nhận vai trò to lớn của gia đình đối với xã hội. Vai trò này được thể hiện thông qua các chức năng cơ bản nhất, là: sinh đẻ, tái sản xuất ra con người, nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái, hoạt động kinh tế, tổ chức đời sống vật chất và tinh thần cho các thành viên trong gia đình, thoả mãn những nhu cầu tâm, sinh lý trong gia đình. Một gia đình có nền tảng đạo đức, gia phong, luôn luôn trên thuận dưới hoà thì mọi thành viên có cơ sở vững chắc để phát triển.
Truyền thống các dân tộc phương Đông cũng như của dân tộc ta rất coi trọng gia đình. Đất nước ta đang ở thời kỳ đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vì thế, gia đình nông dân cũng phải vươn lên ở mức độ tương xứng: xây dựng gia đình nông dân no ấm, hoà thuận, tiến bộ, hạnh phúc, làm cho gia đình nông dân thực sự là tổ ấm của mỗi người, là nền tảng vững chắc của xã hội nông thôn. Xây dựng gia đình nông dân văn hóa là tạo cơ sở vững chắc để giữ gìn và phát huy đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam, ngăn chặn sự xâm nhập của văn hóa phẩm độc hại, phòng chống các tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu.
1. Nội dung cơ bản của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
- Bảo tồn có chọn lọc, cải tiến, đổi mới những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, loại bỏ dần trong cuộc sống những hình thức lỗi thời, lạc hậu; nghiên cứu xây dựng và dần hình thành những hình thức vừa văn minh, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
- Lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa lãng phí, phiền nhiễu.
- Chống khuynh hướng kinh doanh, vụ lợi
- Xóa bỏ hủ tục, bài trừ mê tín dị đoan.
- Phát triển kinh tế, giúp nhau làm giàu chính đáng, xóa đói giảm nghèo.
- Xây dựng tư tưởng lành mạnh.
- Xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, sống và làm việc theo pháp luật.
- Xây dựng môi trường văn hóa sạch - đẹp - an toàn.
- Xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa thể thao ở cơ sở.
ô
2. Xây dựng gia đình văn hóa
2.1. Xây dựng người nông dân văn hóa
Trong mối quan hệ tương tác giữa nhà - làng - nước, thì việc củng cố, xây dựng gia đình được quan tâm trước tiên. Gia đình gồm các thành viên, thành viên gia đình nông dân là những người nông dân. Để xây dựng gia đình nông dân văn hóa, trước hết phải xây dựng người nông dân văn hóa. Bác Hồ dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”8, “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”9. Con người có đạo đức, trí tuệ, văn hóa, sức khoẻ, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm tới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tỷ lệ dân cư nông thôn cũng như tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân, trong kim ngạch xuất khẩu sẽ giảm dần, nhưng phát triển nông thôn vẫn là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững của đất nước. Do vậy, khâu then chốt cần giải quyết để phát triển nông thôn lúc này là tập trung phát triển nguồn nhân lực, là xây dựng người nông dân văn hóa có kỹ năng lao động sản xuất. Trong lĩnh vực này, việc kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc vốn có nguồn gốc sâu rộng ở nông thôn từ lâu đời, có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Từ xa xưa ông cha ta đã đúc kết: “Một người biết lo hơn một kho người làm”; “Nửa bụng chữ hơn một hũ vàng”; “Ruộng bề bề không bằng một nghề trong tay”; “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”. Những điều tổng kết đó đã trở thành phương châm xử thế, phản ánh cả sự thông tuệ của tri thức bình dân và tri thức bác học trong kho tàng văn hóa dân tộc, nếu được vận dụng một cách linh hoạt, đúng lúc, đúng nơi thì chắc chắn sẽ dễ đi vào lòng người và có tác dụng cổ vũ người nông dân phát huy truyền thống hiếu học, nâng cao trình độ hiểu biết, rèn luyện tay nghề để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Và chỉ có trên cơ sở đó, người nông dân mới có khả năng chuyển từ sản xuất độc canh sang đa canh, từ thuần nông sang đa dạng hóa ngành nghề, vừa biết xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái, vừa biết khôi phục các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống (làng dệt vải, làng dệt lụa, làng làm đồ gốm, làng khảm trai…); đồng thời mở mang ngành công nghiệp chế biến và các hợp đồng thương nghiệp, dịch vụ ngay tại thôn, xã, coi đó là bộ phận của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
Tiêu chuẩn người nông dân văn hóa:
- Có lòng yêu nước, gắn bó, yêu quý làng, bản, thôn, ấp; có ý thức bảo vệ và xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
- Có ý thức tập thể, lòng nhân ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, trung thực. Tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp; thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; tích cực tham gia công tác của Hội Nông dân và các đoàn thể khác.
- Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ, hiểu biết; học tập gương người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến; giúp đỡ người lầm lỗi trở thành người tốt, xa lánh cái xấu, không bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao; có ý thức cần kiệm, có ý chí vươn lên xoá đói, giảm nghèo và làm giàu không trông chờ, ỷ lại.
Đó là những đức tính cần đạt tới trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay để trở thành người nông dân văn hóa. Một mặt, nó kế thừa và vun đắp những giá trị tinh thần cốt lõi của ông cha (lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, lòng nhân ái, vị tha, sự quý trọng tình nghĩa, đạo lý “thương người như thể thương thân…”), để xây dựng các quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, từ tế bào xã hội là gia đình đến các khu dân cư. Mặt khác, nó bổ sung những nội dung mới, chẳng hạn như rèn luyện ý thức tôn trọng kỷ cương, pháp luật thay cho quan niệm lỗi thời về “phép vua thua lệ làng”; thái độ tôn vinh những người có công với dân, với nước theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”; tinh thần chăm lo xây dựng gia đình ấm no, hoà thuận, đồng thời ra sức vun trồng cho thế hệ trẻ theo đạo lý tốt đẹp của dân tộc là “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn” và “con hơn cha là nhà có phúc”.
2.2. Xây dựng gia đình văn hóa
Khái niệm gia đình: Là một cộng đồng người đặc biệt được hình thành, phát triển và củng cố bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và huyết thống.
Định nghĩa gia đình văn hoá: Là gia đình phát triển về vật chất, tinh thần, thể hiện qua nề nếp, kỷ cương, thuận hoà, êm ấm, yêu thương và có trách nhiệm với nhau giữa các thành viên, có hướng xây dựng gia đình giầu có, ít con, tiến bộ, hạnh phúc.
Xây dựng gia đình văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm để tạo nên những tế bào hạt nhân văn hóa lành mạnh của môi trường văn hóa tốt đẹp ở nông thôn. Đó là đưa những chuẩn mực đã được quần chúng bàn bạc và thống nhất về với bản thân quần chúng để họ tự giác, tự nguyện xây dựng gia đình văn hóa nhằm giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam trong cuộc sống hiện đại.
Các phần trên đã nói rõ tác dụng, vai trò của gia đình văn hóa đối với sự tiến bộ của mỗi con người và toàn xã hội. Một gia đình trên dưới hoà thuận thì các thành viên trong gia đình có điều kiện sống và làm việc hiệu quả, có nhiều đóng góp cho xã hội. Ngược lại những gia đình “lỏng lẻo”, cha mẹ không biết dạy bảo con cái hoặc cha mẹ bỏ nhau, con cái hư đốn…, kết quả là xã hội phải gánh chịu những đối tượng thường gây ra các tệ nạn. Khi cả nước xây dựng đời sống văn hóa, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, vai trò của gia đình lại càng phải được chú trọng hơn. Xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng gia đình trở thành tổ ấm của mỗi thành viên trong gia đình là trách nhiệm của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Sự hoà thuận phải là kết quả của quan hệ bình đẳng giữa các thành viên, luôn luôn tôn trọng kỷ cương và nền nếp gia phong. Tiến bộ cá nhân không tách rời sự phát triển của gia đình và sự tiến bộ của xã hội. Thực chất xây dựng gia đình nông dân văn hóa là xây dựng nền văn hóa mới, hình thành con người mới, lối sống mới xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc. Trong cuộc sống hiện đại, mỗi gia đình tiếp thu những yếu tố tiên tiến nhưng cần giữ được nét bản sắc, truyền thống. Gia đình có nền tảng đạo đức, gia phong, luôn trên thuận dưới hoà, tôn ti trật tự, con cái nghe lời cha mẹ, cũng như cha mẹ nắm được tâm tư, nguyện vọng của con cái, cùng nhau trao đổi ý kiến để hài hoà mọi công việc trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Con cháu có hiếu với ông bà, cha mẹ; vợ chồng hoà thuận, anh em gắn bó ruột thịt không những đem lại hạnh phúc êm ấm trong gia đình mà còn góp phần đem lại những giá trị tinh thần nhân ái trong cộng đồng. Gia đình truyền thống trải qua đời này sang đời khác đã tạo nên những giá trị tốt đẹp thể hiện một khía cạnh văn hóa của dân tộc.
Tiêu chuẩn danh hiệu “Gia đình văn hoá” thực hiện theo quy định tại Điều 29 Luật Thi đua – Khen thưởng và Quyết định số 62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin (trước đây nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch), như sau:
- Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương:
+ Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, không vi phạm pháp luật Nhà nước và quy ước, hương ước cộng đồng;
+ Giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội; vệ sinh môi trường; nếp sống văn hoá nơi công cộng;
+ Không sử dụng văn hoá phẩm thuộc loại cấm lưu hành; không mắc các tệ nạn xã hội; không vi pham các quy định về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội;
+ Tham gia thực hiện đầy đủ các phong trào thi đua, các sinh hoạt, hội họp ở cộng đồng và bảo vệ di tích lịch sử – văn hoá, cảnh quan của địa phương.
- Gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng:
+ Vợ chồng bình đẳng, thương yêu giúp đỡ nhau, có trách nhiệm nuôi dạy con cái; con cháu hiếu thảo với bố mẹ, ông bà;
+ Trẻ em trong độ tuổi đi học đều được đến trường, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học trở lên;
+ Mỗi cặp vợ chồng có một hoăc hai con, không sinh con thứ ba;
+ Giữ gìn vệ sinh phòng bệnh, ăn ở sạch sẽ, có nhà tắm, hố xí hợp vệ sinh và sử dụng nước sạch. Các thành viên trong gia đình có nếp sống lành mạnh, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao;
+ Đoàn kết xóm giềng, tham gia các hoạt động: hoà giải, tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động, sản xuất, khi khó khăn, hoạn nạn, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện ở cộng đồng.
- Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác học tập đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả:
+ Kinh tế gia đình ổn định, tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm, có kế hoạch phát triển kinh tế gia đình, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên;
+ Các thành viên trong gia đình hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập.
Danh hiệu “Gia đình văn hoá” do Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn công nhận nếu đạt các tiêu chuẩn quy định và có thời gian đăng ký xây dựng danh hiệu “Gia đình văn hoá” là 01 năm. Hồ sơ để đăng ký xây dựng danh hiệu “Gia đình văn hoá” và biên bản họp bình xét ở khu vực dân cư kèm theo danh sách những gia đình được đề nghị công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá” (có từ 50% trở lên số người tham gia họp nhất trí đề nghị).
Căn cứ vào biên bản họp bình xét ở khu vực dân cư, Ban vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đề nghị Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn ra quyết định công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá” hằng năm. Khu dân cư tổ chức công bố quyết định của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá” vào dịp “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” ở khu dân cư hằng năm (ngày 18 tháng 11) và ghi “Sổ vàng Gia đình văn hoá” ở khu dân cư. Đối với gia đình được công danh hiệu “Gia đình văn hoá” 3 năm liên tục, được UBND xã, phường, thị trấn trao Giấy chứng nhận 3 năm đạt danh hiệu “Gia đình văn hoá”.
3. Xây dựng làng (thôn, ấp, bản…) văn hóa
Định nghĩa: Làng là khối dân cư ở nông thôn, làm thành một đơn vị có đời sống riêng về mọi mặt, và là đơn vị cấu thành đơn vị hành chính cấp xã.
Xây dựng làng văn hoá là xây dựng một cộng đồng dân cư như trên, có đời sống kinh tế và văn hoá tinh thần phát triển lành mạnh phong phú, làng văn hoá là danh hiệu vinh dự của cộng đồng dân cư ở nông thôn phấn đấu đạt được các yêu cầu trên.
Định nghĩa truyền thống văn hoá: “Truyền thống văn hoá là nhưng giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hoá dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, pháp luật, dư luận...” (8).
Trong lịch sử phát triển của đất nước, làng (thôn, ấp, bản) đóng một vai trò rất quan trọng. Đây vừa là một đơn vị hành chính, vừa là một thực thể xã hội có độ cố kết rất bền vững trải qua mấy trăm năm dưới các triều đại phong kiến, nhất là ở các tỉnh phía Bắc. Ngày nay, trong quá trình đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội nông thôn có nhiều chuyển biến căn bản. Vai trò của làng được đề cao trong quản lý kinh tế - xã hội. Hầu hết các hoạt động kinh tế - hành chính - văn hóa - xã hội chuyển trọng tâm từ xã về làng. Xây dựng làng văn hóa trên cơ sở phát huy các yếu tố tích cực của văn hóa truyền thống làng, kết hợp các yếu tố mới phù hợp với thực tiễn đời sống là một phương pháp thích hợp, một hướng đi đúng trong yêu cầu đổi mới công tác tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn.
Mặc dù, tiêu chuẩn và cách làm ở mỗi nơi có khác nhau, song về cơ bản nội dung làng văn hóa được thể hiện tập trung vào 4 vấn đề sau:
- Có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển.
- Có đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú.
- Có cảnh quan, môi trường sạch đẹp.
- Thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nhiều địa phương xây dựng làng văn hóa bắt đầu từ xây dựng trường học, trạm y tế, đường giao thông…, khơi dậy truyền thống tốt đẹp cần kiệm xây dựng quê hương.
Có một thực tế khách quan là ở các cơ sở khác nhau, trên các địa bàn khác nhau có sự chênh lệnh về mức hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của nhân dân. Đơn vị bản, làng, buôn, sóc… ở nước ta hình thành từ rất lâu đời, trải qua lịch sử phát triển còn in đậm dấu ấn vùng, miền. Do vậy, nội dung, phương thức, cách làm trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở phải vận dụng cho phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng địa phương; cách làm ở nông thôn khác ở đô thị; miền núi khác miền xuôi; cần có sự quan tâm đặc biệt đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Khi đề ra nội dung, phương pháp xây dựng gia đình nông dân văn hóa, làng (thôn, ấp, bản) văn hóa phải dựa vào đặc trưng từng vùng, miền, và các nội dung, phương pháp đó phải được vận dụng linh hoạt, ngoài cái chung nhất còn có cái riêng, cái đặc thù của từng làng, bản… Vì vậy, ở miền núi, xây dựng làng, bản văn hóa cần chú trọng những nội dung sau đây:
- Thực hiện định canh, định cư chăm lo phát triển sản xuất, giữ vệ sinh làng, bản, ốm đau đến trạm y tế xã khám, chữa bệnh.
- Trẻ em ở độ tuổi đi học phải đến trường. Xây dựng gia đình theo luật Hôn nhân và gia đình, sinh đẻ có kế hoạch.
- Đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và đoàn kết với các dân tộc anh em.
Đó là những việc cần làm, còn những việc không cần làm là:
- Không thách cưới to. Không ăn uống tốn kém trong đám tang, không để linh cữu trong nhà lâu ngày, bỏ tục bón cơm cho người chết, chôn người quá cố ở nơi quy định, xa đầu nguồn nước. Không nhờ thầy cúng, thầy lang khi ốm đau.
- Không phá rừng làm nương, rẫy, không trồng cây thuốc phiện và hút thuốc phiện.
- Không nghe theo kẻ xấu tuyên truyền, xúi dục.
- Bỏ tục cướp vợ và con dâu, phải lấy anh em nhà chồng khi chồng chết.
Như vậy, việc xác định nội dung, tiêu chuẩn gia đình văn hóa, làng văn hóa cũng như khi áp dụng trong thực tế phải luôn chủ động, sáng tạo mới đạt kết quả. Việc bình xét cũng vậy, không lấy mức phát triển về cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế, mặt bằng dân cư ở khu vực đồng bằng làm thước đo đối với khu vực miền núi, nơi có nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Nội dung tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng gia đình văn hóa, làng (thôn, ấp, bản) văn hóa hướng vào mục tiêu xây dựng và phát triển toàn diện một nông thôn mới, trong đó có sự phát triển đồng bộ về: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế..., đặc biệt nhấn mạnh việc phát huy tính chủ động, tích cực của người nông dân, tính tự quản của cộng đồng (làng, thôn, ấp, bản...).
IV. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng gia đình nông dân văn hóa, làng (thôn, ấp, bản) văn hóa là một nhiệm vụ phải được thực hiện thường xuyên, lâu dài. Phải tiến hành từng bước với những biện pháp cụ thể, phù hợp hoàn cảnh của từng địa phương, từng khu vực.
1. Hội cần phối hợp với chính quyền, các ngành, đoàn thể và nhà trường để tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền nhằm phổ biến sâu rộng, trực tiếp, kịp thời các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, các quy định, hương ước, quy ước của địa phương, góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng, tri thức, tình cảm của nhân dân. Phát huy tác dụng của các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình, băng đĩa...), trạm bảng tin, trang trí pa-nô, khẩu hiệu, các cuộc sinh hoạt chính trị, nói chuyện chuyên đề... Nâng cao chất lượng và tính hấp dẫn của chương trình phát thanh tiếng các dân tộc Mông, Dao, Thái, Nùng... Bên cạnh việc nâng cao chất lượng và hiệu quả các loại hình thông tin gián tiếp (báo, đài), cần hết sức chú ý hình thức thông tin trực tiếp, có tác dụng tuyên truyền khá tốt ở nơi tập trung đông người (chợ phiên vùng cao, cuộc họp, lễ hội...).
Chú ý kịp thời nêu gương những người tốt, những gia đình hội viên, nông dân thực hiện tốt cuộc vận động, bằng nhiều hình thức như: biểu dương trong hội nghị, viết bài, đọc trên loa phát thanh xã, phường, dán các bản tin của Hội, về những điển hình gia đình văn hoá, làng văn hoá để mọi người tiện theo dõi và làm theo. Đẩy mạnh phong trào thi đua, học tập các điển hình tiên tiến.
2. Cuộc vận động này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Vì vậy, Hội cần phối hợp với chính quyền và các đoàn thể tổ chức thực hiện. Cụ thể là cán bộ cơ sở Hội từ chủ tịch, phó chủ tịch đến các chi hội trưởng, chi hội phó, tổ trưởng, tổ phó phải là nòng cốt, hạt nhân tích cực tham gia và vận động hội viên, nông dân tham gia, tạo thành phong trào rộng khắp, thiết thực. Cán bộ Hội cần tranh thủ sự ủng hộ của các già làng, trưởng bản, trưởng họ, người có uy tín trong gia đình, các chức sắc tôn giáo trong quá trình vận động và tổ chức thực hiện cuộc vận động.
3. Tham gia với chính quyền, các ngành, đoàn thể thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Nâng cao vai trò lãnh đạo, quản lý của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể và tính tự quản của nhân dân, của nông dân, làm chuyển biến rõ rệt môi trường văn hóa cơ sở, xây dựng gia đình nông dân văn hóa, làng (thôn, ấp, bản) văn hóa.
Cần nhận thức rõ và thống nhất: không phải chỉ những nơi có điều kiện kinh tế, giàu truyền thống văn hóa mới xây dựng được gia đình văn hóa, làng văn hóa, mà có thể xây dựng được gia đình văn hóa, làng văn hóa ở những nơi có sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ lãnh đạo và phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội, các tổ chức, đoàn thể, vận động được đông đảo quần chúng tích cực tham gia xây dựng quê hương giàu đẹp, tiến bộ, văn minh. Cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa là một trong những biện pháp hữu hiệu để xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trên địa bàn nông thôn và phải tiến hành đồng bộ cả kinh tế và văn hóa, gắn kết một cách hữu cơ giữa mục tiêu phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Thực hiện phương châm xã hội hóa, khai thác các nguồn lực vật chất cũng như tinh thần trong nhân dân, trong thôn, ấp, bản, làng. Đa dạng hóa về hình thức, thiết thực về nội dung, gắn chặt với các cuộc vận động khác đang diễn ra ở nông thôn, coi đây là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; không gò ép, dập khuôn máy móc, không làm ồ ạt, phô trương, hình thức, chạy theo thành tích. Phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chính; không đợi “xây” rồi mới “chống”, hoặc ngược lại “chống” rồi mới “xây”. “chống” đi liền với “xây”, song có khi phải “chống”, phải chấm dứt ngay sự tồn tại của một hiện tượng văn hóa không lành mạnh kể cả khi chưa có được một hình thức hay hơn, tốt hơn thay thế nó. Trước mắt, chống các hủ tục, kể cả hủ tục cũ và mới, chống các tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan.
Xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa là công việc thường xuyên, lâu dài, gian khổ, đòi hỏi kiên trì, bền bỉ, sáng tạo. Không phải chỉ đạt danh hiệu và nhận bằng chứng nhận là xong mà cần tạo dựng cuộc sống mới ở nông thôn phát triển toàn diện theo hướng văn minh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
4. Tạo ra những điều kiện cần thiết để xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa: động viên mọi người tham gia hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao trên cả hai mặt sáng tạo và hưởng thụ.
- Tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng đời sống văn hóa ở cơ sở. Xuất phát từ đặc điểm địa lý vùng, miền cũng như tâm lý, nhu cầu của tầng lớp dân cư mà đề ra chương trình kế hoạch xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa có tính khả thi. Xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, cách làm phù hợp và tổ chức triển khai một cách sáng tạo, cụ thể, kiên trì, kịp thời động viên cổ vũ những việc làm tốt, đồng thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai lệch.
- Củng cố, nâng cấp, sử dụng có hiệu quả các thiết chế văn hóa hiện có của địa phương, của các đơn vị đóng trên địa bàn (nhà văn hóa, trạm truyền thanh, thư viện, phòng đọc sách báo, điểm bưu điện - văn hóa xã, trường học, sân, bãi), của các tổ chức tôn giáo (chùa, đền, nhà thờ, thánh thất...). Vươn lên đầu tư xây dựng những thiết chế mới bằng nguồn kinh phí huy động trong dân là chủ yếu, đáp ứng nhu cầu chính đáng, ngày càng cao của nhân dân.
- Thành lập các đội văn nghệ (tuồng, chèo, cải lương, rối nước, dân ca...), đội bóng đá, bóng chuyền, câu lạc bộ thơ ca. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu lịch sử, thi sáng tác và hát dân ca, hát ru; tổ chức hội khoẻ thể dục - thể thao và dịp lễ hội, các ngày kỷ niệm lớn của dân tộc, của địa phương và của các ngành. Bảo tồn, tôn tạo và phát huy các di tích, di sản văn hóa, các nhà bảo tàng, nhà tưởng niệm, nhà truyền thống. Khôi phục, phát triển các làng nghề thủ công, mỹ nghệ thêu, đan, đồ gỗ, khảm trai. Khai thác, sưu tầm, phổ biến các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc anh em trong cộng đồng; bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian, ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc thiểu số.
- Đề xuất với chính quyền kế hoạch hỗ trợ đầu tư kinh phí trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh; xây dựng khu vui chơi, giải trí, sân bãi..., trang bị, cung cấp phương tiện nghe nhìn, nhạc cụ, sách báo cho các nhà văn hóa, câu lạc bộ.
- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hoạt động văn hóa ở cơ sở - những người trực tiếp làm nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn, những báo cáo viên, tuyên truyền viên. Họ giữ vai trò quyết định trong việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ và nâng cao hiệu quả, tác dụng của các thiết chế văn hóa. Có chính sách phù hợp cũng như tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ này. Lựa chọn những người có khả năng về thể dục, thể thao, văn nghệ...để bồi dưỡng thành những cán bộ nòng cốt của phong trào. Đề nghị với chính quyền tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động văn hoá, xây dựng cơ sở vật chất, các phương tiện hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao.
- Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”, Hội Nông dân phối hợp với ngành văn hóa - thông tin và các đoàn thể nhân dân huy động sự đóng góp của nhân dân, của các tổ chức, đơn vị trên địa bàn vào việc xây dựng và quản lý các cơ sở văn hóa.
Thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn là trách nhiệm của mỗi gia đình nông dân, của cộng đồng dân cư nông thôn trong việc lưu truyền các giá trị văn hóa dân tộc, xây dựng cuộc sống mới góp phần xây dựng môi trường văn hóa xã hội lành mạnh, tạo nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đây là cuộc vận động hợp lòng dân, tạo sự phát triển bền vững từ trong tế bào xã hội, tích cực hưởng ứng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đang được đẩy mạnh trên phạm vi cả nước huy động rộng rãi các nguồn lực xã hội chủ động và tích cực tham gia phát triển văn hóa.
Văn hóa và phát triển nói chung, văn hóa và CNH, HĐH nói riêng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Xét cho cùng, văn hóa là vấn đề con người, hướng tới sự phát triển của con người với tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh. CNH, HĐH mà chúng ta đang thực hiện cũng vì con người và do con người. Cả hai đều nhằm xây dựng môi trường chính trị - kinh tế - xã hội ổn định, tạo sự nhất trí và đồng thuận trong xã hội. Đó chính là nhân tố bảo đảm cho đất nước phát triển toàn diện và bền vững. Do vậy, để thực hiện thắng lợi công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, chúng ta cần tập trung đầu tư thoả đáng cả vể tinh thần, trí tuệ, phương tiện, cơ sở vật chất... cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng gia đình nông dân văn hóa, làng (thôn, ấp, bản) văn hóa./.
- TÀI LIỆU HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU, QUÁN TRIỆT, HỌC TẬP, TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM LẦN VII (22/05/2019, 10:21)
- CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA HỘI NÔNG DÂN CƠ SỞ (22/06/2017, 14:52)
- ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC (22/06/2017, 14:51)
- PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG BỀN VỮNG (22/06/2017, 14:47)
- PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC CỦA CÁN BỘ CƠ SỞ HỘI (22/06/2017, 14:45)
- VĂN PHÒNG HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM (22/06/2017, 14:43)
- PHƯƠNG PHÁP NẮM BẮT, PHẢN ÁNH TÂM TƯ, NGUYỆN VỌNG CỦA HỘI VIÊN, NÔNG DÂN (22/06/2017, 14:39)
- NHIỆM VỤ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG NHIỆM KỲ 2013- 2018, CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN (22/06/2017, 14:34)
- HƯỚNG DẪN TUYÊN TRUYỀN MIỆNG (22/06/2017, 14:32)
- HỎI - ĐÁP MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (22/06/2017, 14:31)